William Faulkner (1897 – 1962) là một tiểu thuyết gia người Mỹ. Đoạt Giải Nobel Văn học năm 1949, và hai giải Pulitzer cho tác phẩm hư cấu vào năm 1955 và 1963, ông là một trong những nhà văn quan trọng nhất của thế kỷ XX.
Mục tiêu của mọi người nghệ sĩ là nắm bắt cái động, chính là cuộc đời, bằng những phương thức nhân tạo và giữ nó tĩnh lặng để một trăm năm sau, khi người lạ nhìn vào nó, nó lại chuyển động vì nó là cuộc đời.
Faulkner đã "dành thời giờ suy nghĩ những gì mà một con người ở Mississippi tin tưởng là khuynh hướng (đời sống) căn bản hiện nay, cố gắng tìm ra câu trả lời xác đáng nhất, và hư cấu những câu chuyện khủng khiếp nhất mà bản thân tôi có thể tưởng tượng", tạo ra thứ động lực tinh thần mới trong một đời sống bị đe dọa hủy hoại tới tận cùng mọi biểu hiện. Cũng chính ông là người đưa ra thông điệp: không phải bản thân cái ác, mà nỗi khiếp nhược trước tội ác sẽ làm sụp đổ toàn bộ giá trị mà con người phải trả giá bằng hàng ngàn năm gây dựng, như luật pháp, công lý, nền văn minh.
…
Bằng diễn tiến melodrama quen thuộc, câu chuyện cho thấy từng bước cái thiện và ham muốn tốt lành của đời sống đã bị vùi dập, hủy hoại một cách tàn nhẫn và bất công ra sao, tương tự trường hợp To kill the mocking bird của Harper Lee. Nhưng nghệ thuật của riêng Faulkner lại là cách ông đã buộc chúng ta đối mặt với những điều kỳ lạ, u ám và man rợ trong chính mỗi người bình thường.
Sự vận dụng quyết liệt và cạn kiệt thủ pháp "ngắt quãng" phá bỏ logic của sự kiện và tính cao trào thông thường, câu chuyện được dựng lại hết sức hình thức và máy móc, theo lối hình dung võ đoán, có khi thuần túy thị giác. Các nhân vật trở nên xa lạ, không thể đoán định so với con người khởi đầu của nó
Trong một thế giới bị "tung hỏa mù", không còn cột mốc thông thường để đánh dấu thiện - ác, chúng ta "bị ép" tẩy rửa định kiến, ghi lại những dấu mốc mới tinh trong việc xác định một thái độ đạo đức và sinh tồn.
William Faulkner, một trong những nhà văn vĩ đại nhất của thế kỷ XX, sinh ra tại New Albany, Mississippi, ngày 25 tháng 9 năm 1897. Ông xuất bản cuốn sách đầu tiên, The Marble Faun, một tuyển tập những bài thơ, năm 1924, nhưng nó lại giống như là một thứ biên niên sử văn học về cuộc sống của vùng Cực Nam – đặc biệt về thị xã hư cấu Yoknapatawpha, khung cảnh cho một số tiểu thuyết của ông - mà ông đã quan tâm tới nhiều nhất. Chẳng hạn như cuốn Sanctuary (1931), The Hamlet (1940), The Town (1957), và The Mansion (1959), ông khảo sát ti mỉ đời sống sau nội chiến ở miền Nam, chú trọng vào cả hai mặt lịch sử cá nhân và cá tính những nhân vật (đặc biệt là những thành viên trong gia đình Snopes) và trên thứ luân lý lỏng lẻo của một xã hội đang tăng dần sự sa doa phóng đãng. Những tiểu thuyết khác của ông bao gồm The Sound and the Fury (1929), As I Lay Dying (1930), Light in August (1932),Absalom, Absalom! (1936), The Unvanquished (1938), Intruder in the Dust (1948), Requiem for a Nun (1951) A Fable (1954) và The Reivers (1962). Về hai cuốn tiểu thuyết sau, ông đã được Giải Pulitzer. Đồng thời ông cũng viết nhiều tập truyện ngắn cũng như những tập thơ và tiểu luận.
Trong việc khế hợp tác dụng của chủ nghĩa tượng trưng và ngọn sóng của ý thức kỹ thuật, ông đã sáng tạo nên cách tiếp cận mới đến lối viết hư cấu. Vào năm 1949, ông được Giải Nobel về Văn chương.
William Faulkner mất tại Byhalia, Mississippi, ngày 6 tháng 7, năm 1962.