Thuyền là hành trình vượt biển của một người Việt vào những năm 80 của thế kỷ trước. Những dòng hồi ức đan xen cho người đọc hình dung được hoàn cảnh, bối cảnh một người di tản trái phép sau khi đã phải tiêu tốn rất nhiều tiền, vàng để được lên thuyền. Người thanh niên xưng “tôi” và bạn gái anh ta, cùng với khoảng 150 người đồng hành, đã gặp phải những “kiếp nạn điển hình”: bị trấn lột tài sản; bị nhồi nhét trong hầm thuyền chật chội, thiếu tiện nghi; gặp bão tố; bị hư hỏng thuyền; bị đi lạc; bị hải tặc Thái Lan cướp, hãm hiếp, quăng xuống biển; bị chết vì đói khát, tai nạn, bệnh tật...
Bạn gái nhân vật “tôi” khi bị bọn cướp biển bắt đi sang thuyền của chúng (để làm nô lệ tình dục hoặc để mua bán) cô đã lao mình xuống biển tự vẫn.
Nhân vật “tôi” cùng những người sót lại của cả đoàn, sau mười tám ngày lênh đênh trên chiếc thuyền hỏng nát, may mắn gặp được một thủy tàu đánh cá, kiêm nghề cướp biển cứu giúp, kéo thuyền cập bến một nước nhận tị nạn. Anh lang bạt qua các tại tị nạn ở Đông Nam Á, rồi sang Mỹ, sang Canada và định cư tại đó. Sau mấy chục năm, với những ký ức sang chấn chưa thể nhòa từ cuộc vượt biển khủng khiếp, người đàn ông trở về, đau đáu với những câu hỏi mang theo từ ngày ra đi càng lúc càng trở nên mông lung: Thực chất tự do đúng nghĩa là gì? Có thật ngày đó chỉ có một lựa chọn?
Thuyền gồm 55 chương nhưng đó không phải là tiểu thuyết chương hồi mạch lạc theo kiểu truyền thống mà là những tiểu tự sự phân mảnh đan xen, mỗi chương như một đoản văn vừa có vẻ rời rạc của những mảnh ký ức đơn lẻ vừa có mạch kết nối ngầm xuyên suốt mê cung ký ức đầy những ẩn ức và ám ảnh phức tạp.
Chọn lựa một hình thức hư cấu, kết cấu phi tuyến tính, Thuyền đặc tả trạng thái sang chấn tâm lý, bất ổn thường trực của một người di tản mà quá khứ là nỗi đau, tương lai thì mờ mịt và hiện tại thì bất định. Thế nên, Thuyền không chỉ là thuật lại một hành trình sinh tử, mà còn là hành trình nội tâm bất tận, nơi nỗi đau, sự mất mát và nỗi niềm tha hương trở thành máu thịt của mỗi nhân vật, trở thành bài học cho thế hệ mai sau.
Thuyền có đau thương, ly tán, đầy máu và nước mắt nhưng không có oán thán, hận thù.
Thuyền có bi kịch, ân hận, sám hối nhưng không có đổ lỗi hay buộc tội.
Thuyền, vì thế không thể đọc nhanh, không dễ đọc liền một mạch, nhưng chắc chắn sẽ khiến bạn phải đọc đi rồi đọc lại, rùng mình, uất nghẹn, ứa nước mắt, xót xa và tha thiết yêu thương về một giai đoạn lịch sử của dân tộc còn cần nhiều sự thấu cảm mà chúng ta không được phép lãng quên…
”Cuốn sách nhỏ này tập hợp những bức thư viết rải rác trong nhiều năm, nhân vật trong ấy mới đầu là một cậu bé nhỏ tuổi. Các cậu bé ấy ngày một lớn lên, khác đi, người viết cũng ngày một lớn lên và già đi. Không có gì trên đời là vĩnh viễn. Hãy nghĩ khác đi. Hãy cảm xúc khác đi. Chúng ta có một mùa để sống, một mùa để yêu thương, một mùa để nhớ lại. Tôi gởi đến các con lời cảm ơn của người có được may mắn làm bổn phận của cha mẹ, dẫn các con đi qua một đoạn đường ngắn mà lòng đầy hy vọng. Kỷ niệm ấy, niềm hy vọng ấy là tia mặt trời ấm áp chiếu rọi cuối một ngày cho một người.”
Đây là tâm sự của tác giả Nguyễn Đức Tùng, trong “Lời nói đầu” của cuốn sách “Thư gởi con trai - Những bài học về sự tử tế”. Bằng những câu chuyện thủ thỉ với con, về mọi việc diễn ra trong cuộc sống hàng ngày, tác giả đã đưa vào đó những suy nghĩ, chiêm nghiệm của một người đàn ông từng trải, một người cha muốn con mình “nghĩ khác đi”, “cảm xúc khác đi”, và trên hết là hiểu “không có gì trên đời là vĩnh viễn”, để con biết trân trọng, yêu thương những gì còn có trong tầm tay.
Gọi là “Thư gởi con trai”, nhưng 80 lá thư trong tập sách là 80 lá thư mà ai cũng cần được đọc. Các bạn nhỏ đọc để cảm nhận được tình yêu thương vô bờ mà bố mẹ dành cho mình, để học cách “nghĩ khác đi” trước khi đòi mua một món đồ đắt tiền để khoác lên mình cho bằng bạn, bằng bè… Những người làm cha, làm mẹ đọc để thêm trân trọng “món quà của thượng đế” là những đứa con: “Bất cứ cha mẹ nào khi nghĩ đến con, không phải chỉ nghĩ đến lời cảm ơn của chúng dành cho mình, mà còn nghĩ đến lòng biết ơn của họ đối với con cái. Nhờ trẻ con mà chúng ta lớn lên, nhờ có chúng mà chúng ta được hạnh phúc làm người đi trước, che chở, chỉ đường. Nhờ có lời nhắc của con, hôm ấy ta về nhà sớm, và có một buổi tối cả nhà cười phá lên trước cái tivi vui nhộn, những câu hỏi hóc búa. Những cha mẹ đi làm việc thỉnh thoảng nên nhận được lời nhắc về nhà sớm như vậy, vì tuổi thơ chóng qua, khi bạn thu xếp được thì giờ thì bọn trẻ đã lớn, không cần chúng ta nữa”.
Mỗi bài viết đều là những bài viết ngắn, đề cập đến những việc đơn giản thường ngày nhưng đều có những khoảng lặng đáng suy ngẫm, không chỉ là câu chuyện cha nói với con mà còn là lời nhắc đối với mỗi người trong những vội vàng, bộn bề của cuộc sống, được sống chậm lại, lặng yên để ngắm nhìn lại mình và cuộc sống xung quanh. Đúng như tác giả viết: “Những bức thư này là câu chuyện, không phải những bài giảng luân lý hay lời khuyên đạo đức. Chúng chỉ kể lại những kinh nghiệm, những cảm xúc, những suy nghĩ. Nếu con tìm thấy ở đó bài học của ký ức, những kết luận về lối sống, thì đó là lời khuyên của chính những câu chuyện ấy, những cuộc đời ấy, tình huống ấy”.
Cuốn sách được viết bởi một người Việt xa xứ đã lâu, một người Việt có tâm hồn của một thi sĩ và cái nhìn chiêm nghiệm của một bác sĩ, mỗi dòng mỗi chữ viết về ngôn ngữ mẹ đẻ, về kí ức tuổi thơ, về hai tiếng “Việt Nam”, đều thấm đẫm yêu thương. Văn viết chậm rãi, nhẹ nhàng nhưng lại là những khoảng lặng đáng quý để ai cũng có dịp được nhìn lại, được lắng nghe mình và lắng nghe cuộc sống.
Thông tin tác giả Nguyễn Đức Tùng
Nguyễn Đức Tùng sinh tại Quảng Trị, lớn lên và đi học ở Quảng Trị và Huế. Tốt nghiệp y khoa Đại học McMaster, Nội trú Đại học Toronto, Thường trú Đại học UBC, hiện định cư và hành nghề bác sĩ ở Canada. Làm thơ, dịch thuật, viết truyện, phê bình.
Tác phẩm đã in:
Thơ đến từ đâu? (NXB Lao động, 2009)
Đối thoại văn chương (NXB Tri thức, 2012)
Thơ cần thiết cho ai (NXB Hội Nhà văn, 2015)
Cuộc đời yêu dấu (Alice Munro, dịch, NXB Trẻ, 2017)