Với mong muốn giúp trẻ cảm thấy tự tin hơn mỗi khi muốn bày tỏ suy nghĩ, tình cảm của mình, đặc biệt chúng tôi mong trẻ không ngại ngần, chau mày ủ dột mỗi khi làm bài tập làm văn, chúng tôi giới thiệu đến bạn đọc cuốn Ngàn mùa hoa của cố nhà văn Băng Sơn.
Đọc Ngàn mùa hoa chúng ta không chỉ cảm nhận được nét đẹp của thiên nhiên mà còn cảm nhận được nét bình yên của nông thôn xưa. Chúng ta được nhìn ngắm lại làng quê Việt những năm 70, 80 của thế kỉ trước với những gian nhà lợp mái tranh mỗi khi trời mưa thì từng giọt, từng giọt tí tách như đuổi nhau từ mái nhà chạy xuống đất, chiếc cổng nhà bằng tre xanh vì “một số gia đình mở thêm trại, trổ lũy tre thành cái cổng riêng”, hay chiếc cổng làng rợp bóng “mát rượi vì lũy tre hai bên mọc sát vào vòm cổng” (Cổng làng), những buổi trưa oi ả đám trẻ nằm võng kẽo kẹt nghe đâu đây vọng lại tiếng gà gáy, ...
Ngàn mùa hoa còn là một bức tranh nhiều màu sắc sống động được tác giả phác họa bằng ngôn ngữ trong sáng, giản dị. Dưới ngòi bút của ông, màu không chỉ là xanh đỏ tím vàng, mỗi màu còn có nhiều thang bậc khác nhau “màu vàng chanh của hoa mướp, hoa cải, màu vàng thư của hoa bí ngô” (Hoa vàng), “Đỏ tía là hoa chuối, Đỏ tươi là hoa vông, hoa gạo. Màu đỏ của hoa hồng có quanh năm... Mùa hè hoa mào gà đỏ đến chói mắt. Hoa lựu như những đốm lửa lập lòe về mùa hè.” (Hoa đỏ). Đôi khi, ngòi bút của ông không chỉ vẽ hoa mà còn vẽ cây, vẽ lá dẫu chúng non nớt “chưa đủ màu xanh mà hãy còn hồng hồng như chưa biết cuộc đời làm lá” (Rau láo nháo).
Dường như mọi vật qua góc nhìn của ông dẫu rất bình thường, đôi khi tưởng tầm thường, như cây rau sam, rau tập tàng nằm rạp mình trên đất, hay đơn giản là những giọt gianh “trông trong vắt” tí tách từ mái nhà tranh làm chỗ nước rơi “lõm sâu xuống, trơ ra vài miếng gạch hồng hồng, vài viên sỏi”, mái gianh “lơ xơ lác xác như một mái đầu lười cắt tóc” (Giọt gianh) cũng trở thành nỗi nhớ, niềm thương của người bé khi trở thành người lớn. Cái thuở bé bỏng mỗi buổi mẹ đi chợ về ngồi ngóng “cái dáng đi tất tưởi” của mẹ, ngóng cả món quà chợ mẹ cho khi thì cái bánh đa khoai, lúc là cái bánh chưng gù, một xâu hạt mít... Những món quà tuổi thơ giờ nghĩ lại đó còn là “tình thương yêu vô bờ bến của mẹ dành cho tôi” (Quà chợ). Có lẽ, nhà văn dùng ngôn từ vẽ lên từng cái lá, bông hoa, từng góc vườn, ruộng lúa không chỉ đơn giản muốn lột tả cái đẹp của quê hương, hơn hết ông muốn gửi gắm cả nỗi nhớ niềm thương về một nơi ông đã sinh ra và lớn lên, nơi có những kỉ niệm bên gia đình.
Quê hương là cánh cổng làng ẩn hiện sau lũy tre, là ngôi đình làng “bảy gian hai chái” được “xây gạch vồ, lợp ngói mũi hài, bốn góc gọi là bốn đầu đao cong vút lên, có cái đuổi con chịm phượng uốn cong” (Ngôi đình láng), là cái nùn rơm bố cầm theo ra đồng, là ổ rơm tắm đủ nắng hè, sưởi ấm cho người bé vào ngày đông lạnh giá. Cách nhà văn mô tả rõ nét từng chi tiết giúp người thế hệ cũ hoài niệm về một thời chân đất, nền nhà bằng đất nện được trang trí bằng hạt trám xinh xinh, còn người thế hệ mới đọc thì tò mò về những vật dụng thời ấy, ví như cái cối giã gạo, cái nùn rơm, ổ rơm... Thế là bạn nhỏ thời hiện đại lại tò mò tìm hiểu, tò mò khám phá những gì đã đi vào trí nhớ của người lớn, những gì đã nằm lại trên dòng chảy lịch sử phát triển của đất nước.
Nét thân thương của làng quê không chỉ ở cỏ cây hoa lá, ở góc vườn nhà hay mái đình cổ kính, nó còn nằm trong những nét truyền thống mà dù ở đâu chúng ta cũng được trải nghiệm, chỉ là mỗi vùng quê sẽ có sắc thái rất riêng. Đọc Tết làng chúng ta nhìn thấy trước mắt không khí rộn ràng của những ngày cuối năm, vang đâu tiếng “lợn kêu eng éc. Ai cũng vội. Hình như Tết đang đuổi phía sau lưng”. Cách nhà văn sử dụng động từ “đuổi” khiến chúng ta tưởng như có một cuộc chạy maratong đang diễn ra ở đoạn về đích, gay cấn, vội vã và hồi hộp biết bao nhiêu. Tết đến nhà nào cũng bày biện nải chuối xanh, quả cam vàng, chùm quất, ai ai cũng có quần áo đẹp... Hay chúng ta sẽ trải nghiệm tục chăng dây trong Đám cưới quê với mong muốn mang lại may mắn cho cô dâu chú rể. Thời đó cô dâu thời bấy giờ mặc trang phục cưới không phải bồng bềnh váy trắng mà chỉ mặc áo mớ ba mớ bảy đủ màu sắc, đầu đội nón thúng to.
Chao ôi, chỉ với hơn trăm trang sách nhưng bằng cách sử dụng khéo léo từ tượng thanh, tượng hình, cách mô tả chân thực từng cánh hoa, cọng lá mà dường như tác giả đưa chúng ta trở lại làng quê xưa với đủ âm thanh, hình ảnh và sắc màu sống động. Không những thế bạn còn được trải nghiệm đủ các phong tục tập quán, nét văn hóa dân gian của dân tộc ta qua những câu văn xúc tích, ngắn gọn khiến người đọc dễ thấm, dễ thẩm cái ý tác giả muốn truyền tải qua câu chữ.