"Sân khấu khủng bố - Âm nhạc và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc" của John Hutnyk
Chúng ta đã quen với việc chứng kiến bạo lực dưới dạng hình ảnh. Nó đến từ màn hình, qua tai nghe, trong lời bài hát, những đoạn clip ngắn, những dòng tít gây sốc - và rồi tan biến nhanh chóng như thể chưa từng hiện diện. Nhưng điều gì xảy ra khi chính những hình ảnh ấy không chỉ phản ánh thực tại, mà tham gia vào việc nhào nặn nên nó? Khi âm nhạc, truyền thông và các biểu tượng văn hóa bị huy động để định hình kẻ thù, khuôn đúc nỗi sợ, và duy trì một trật tự chính trị vô hình?
John Hutnyk, trong Sân khấu khủng bố, không đi tìm thủ phạm cho các vụ tấn công, không tái dựng hiện trường khủng bố, cũng không viết lại những hồ sơ chính trị quốc tế. Ông làm một việc khác: ông lật lại hậu cảnh của những hình ảnh mà ta tưởng đã “xem hiểu”, những âm thanh mà ta tưởng là “vô hại”, những bản tin mà ta tưởng chỉ là “truyền đạt sự thật”. Bằng giọng văn sắc lạnh nhưng không lên gân, bằng chất liệu là văn hóa đại chúng, Hutnyk phơi bày một thế giới nơi chính trị không còn cần phải tuyên bố, vì nó đã được phối âm, dựng hình, và phát sóng hàng giờ mỗi ngày.
Cuốn sách bắt đầu từ một hình ảnh ám ảnh: chiếc xe buýt hai tầng bị phá hủy trong vụ đánh bom London năm 2005, bên hông vẫn còn nguyên dòng quảng cáo cho một bộ phim kinh dị sắp chiếu: “Hoàn toàn khủng bố, táo bạo và rực rỡ.” Hình ảnh ấy - một sự trùng hợp rợn người – trở thành khởi điểm cho một hành trình phân tích không khoan nhượng về cách mà khủng bố, âm nhạc, và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc bị sân khấu hóa trong thời đại truyền thông toàn trị. Hutnyk không chỉ dừng lại ở hiện tượng; ông lật tẩy cả cấu trúc của những hình ảnh ấy: Ai là đạo diễn? Ai viết kịch bản? Và tại sao những “người khác” - người Hồi giáo, người da màu, người di dân - luôn bị đẩy vào vai diễn “kẻ đe dọa”?
Điều đáng sợ không phải là hình ảnh bạo lực, mà là sự lặp lại của những hình ảnh ấy đến mức trở thành nền - thành nhạc nền, thành meme, thành điều mà ta lướt qua khi chờ xe buýt hay mở một playlist trên Spotify. Âm nhạc, tưởng như là nơi trú ẩn cuối cùng của tự do biểu đạt, trong phân tích của Hutnyk, lại trở thành một công cụ hai mặt: vừa là phương tiện phản kháng, vừa bị đồng hóa vào guồng máy kiểm soát. Một đoạn rap có thể bị gọi là “ca từ cảm tử”. Một MV có thể bị gỡ bỏ vì “kích động”. Một nghệ sĩ có thể bị biến thành biểu tượng - rồi bị đạp đổ bởi chính hệ thống đã tôn vinh họ.
Nhưng Sân khấu khủng bố không chỉ là một bản cáo trạng. Đó là một lời mời bước vào vùng nhiễu - nơi mọi thứ đều có thể là biểu tượng, nơi mọi lời giải thích đều khả nghi, và nơi mà điều quan trọng không phải là “Bằng chứng đâu?” mà là “Vì sao ta lại tin vào điều này?”. Hutnyk lật lại cả cách các nhà lý luận lừng danh như Žižek, Spivak, Derrida tiếp cận chiến tranh và khủng bố, chỉ ra sự im lặng lạ lùng trong những khái niệm tưởng chừng sắc bén. Ông không bài bác, mà đặt họ trở lại chính giữa cuộc sân khấu hóa mà họ cũng không thể thoát ra hoàn toàn.
Điểm đặc biệt của cuốn sách là cách nó kết nối lý thuyết với văn hóa đại chúng mà không hạ thấp cả hai. Những gì tưởng như là chi tiết “trôi” - như nhạc nền trong các buổi thẩm vấn ở Guantánamo, hay mặt nạ trong một đoạn quảng cáo pop - đều được Hutnyk đưa trở lại bối cảnh, khiến người đọc không thể tiếp tục xem đó là những ngẫu nhiên. Tất cả đều là dấu vết - của một cuộc chiến không cần tuyên bố, chỉ cần thao túng ký ức tập thể.
Cuốn sách này không dễ đọc nếu bạn tìm kiếm những kết luận đơn giản. Nó không cung cấp hệ quy chiếu ổn định, mà mời bạn đặt lại cả những công cụ nhận thức mình đang dùng. Nó đẩy bạn vào vùng nhiễu - rồi yêu cầu bạn học cách lắng nghe. Không chỉ lắng nghe lời nói, mà cả những khoảng lặng. Không chỉ nghe âm nhạc, mà cả những thứ đang bị gắn nhãn “ồn”. Sân khấu khủng bố là văn bản cho thời đại mà việc giữ im lặng cũng đã trở thành hành động có tính chính trị. Đọc nó, không phải để “biết thêm về chiến tranh” - mà để nhận ra ta đã vô thức đứng trên sân khấu ấy từ lâu, dưới ánh đèn không phải của sân khấu nghệ thuật, mà của các thiết bị ghi hình an ninh, của truyền thông toàn trị, và của một thứ quyền lực mềm đã thôi dùng súng, vì biết rằng hình ảnh và âm thanh đủ sức khiến ta ngoan ngoãn.
Mục lục sách Sân Khấu Khủng Bố
1. Giới thiệu
Chiếc xe buýt London
Kịch câm
Nhật ký chiến tranh
Sự trung gian
Áo tù nhân màu cam
Cảnh báo
2. DIY Cookbook
Đến thăm nhà Kumar
Rapper cảm tử
1001 đêm
Video Kịch Câm
RampArts interclude (những ghi chép từ một buổi chiếu phim)
Tất cả đều là chiến tranh
Quay trở lại với Kumar
3. Nhạc Dub trong Điện Ảnh
Đại diện cho La Haine
Žižek-degree-zero
Derrida viết về một cách thức
Tháp Eiffel
Lũ du côn, Đám nổi loạn, Kẻ lưu manh và Sự tái diễn
Nhạc Interlude
Riff-raff
Coda: Trận chiến Algiers
4. Scheherazade và chị em của cô ấy, M.I.A
Các Dự Án Văn Hóa
Những đêm của người kể chuyện
M.I.A.
Born Free
Bán đứng (Sell out) hay Tiocfaidh ár lá (Ngày của chúng ta sẽ đến)
Những câu nói châm biếm và Wagner
Văn hóa chuyên chế
Scheherazade ở Guantánamo
Lời cảm ơn
Tài liệu tham khảo
Thông tin tác giả John Hutnyk
John Hutnyk là nhà nghiên cứu, viết về các chủ đề văn hóa, đô thị, cộng đồng người di cư (diaspora), lịch sử, điện ảnh, nhà tù, chủ nghĩa thực dân, giáo dục và chủ nghĩa Marx. Hiện tại, ông là Phó Giáo sư tại Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Tôn Đức Thắng, Việt Nam.
Ông là tác giả của 5 cuốn sách riêng gồm:
The Rumour of Calcutta: Tourism, Charity and the Poverty of Representation (1996, Zed Books; tái bản Bloomsbury India 2023)
Critique of Exotica: Music, Politics and the Culture Industry (2000, Pluto Press)
Bad Marxism: Capitalism and Cultural Studies (2004, Pluto Press)
Pantomime Terror: Music and Politics (2014, Zero Books)
Global South Asia on Screen (2018, Bloomsbury và Aakar tại Ấn Độ)
Ông cũng là đồng tác giả với Virinder Kalra và Raminder Kaur trong cuốn Diaspora and Hybridity (2005, Sage).
Ngoài ra, ông còn biên tập nhiều tuyển tập bài viết học thuật, nổi bật như:
Dis-Orienting Rhythms: the Politics of the New Asian Dance Music (1996, Zed Books; đồng biên tập với Sharma và Sharma)
Travel Worlds: Journeys in Contemporary Cultural Politics (1998, Zed Books; đồng biên tập với Raminder Kaur)
Các số chuyên đề của các tạp chí Theory, Culture and Society (2000), Post-colonial Studies (1998) và Inter-Asia Cultural Studies (2023, 2024)
Tuyển tập Celebrating Transgression - sách tôn vinh Klaus Peter Koepping (2006, Berghahn Books; đồng biên tập với Ursula Rao)
Tuyển tập luận văn tiến sĩ Beyond Borders (2012, Pavement Books)
Gần đây, ông cũng có đóng góp trong các số đặc biệt của các tạp chí học thuật như:
Educational Philosophy and Theory (2020)
Journal of Asian and African Studies (2020)
Social Identities (2021)
Năm 2016, ông là học giả được chương trình GAIN do chính phủ Ấn Độ tài trợ, tại Đại học Jadavpur. Trước đó, ông từng là giáo sư thỉnh giảng tại Viện Nghiên cứu Văn hóa, Đại học Chiao Tung (Đài Loan). Năm 2015, ông giảng dạy tại Khoa Nghiên cứu Liên văn hóa, Đại học Thành phố Nagoya (Nhật Bản). Cũng trong năm 2014, ông làm nghiên cứu viên tại Viện Toàn cầu của Đại học RMIT (Úc) và từng công tác tại Đại học Kiến trúc Mimar Sinan (Thổ Nhĩ Kỳ).
Tại Đức, ông từng làm học giả thỉnh giảng tại Viện Nam Á học và Viện Nhân học thuộc Đại học Heidelberg. Ngoài ra, ông cũng từng giữ vị trí giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Zeppelin và Khoa Nhân học, Đại học Hamburg.
Trong suốt 14 năm công tác tại Đại học Goldsmiths (London), ông giữ chức Giáo sư Nghiên cứu Văn hóa từ năm 2008. Trước đó, ông từng giảng dạy tại Đại học Melbourne và Đại học Deakin (Úc), đồng thời làm nghiên cứu cho các hội đồng sinh viên sau đại học tại các đại học Công nghệ Sydney, Western Sydney và La Trobe.