Sử Ký: Bản Kỷ - Biểu (Bìa Cứng) -  Tư Mã Thiên

339.150₫ 399.000₫
Trạng thái: Chỉ còn 100 sản phẩm
  • Tác giả: Tư Mã Thiên
  • Dịch giả: Nguyễn Đức Vịnh;
  • Ngày xuất bản: 08 - 2022
  • Kích thước: 16 x 24 cm
  • Nhà xuất bản: NXB Văn Học
  • Hình thức bìa: Bìa cứng
  • Số trang: 720

Sử Ký: Bản Kỷ - Biểu (Bìa Cứng) -  Tư Mã Thiên

Sử ký là pho sách được Thái sử công Tư Mã Thiên viết nên bằng tâm huyết cả đời, gửi vào đấy biết bao nỗi niềm cho hậu thế. Nhưng đến nay, hơn hai ngàn năm đã trôi qua, chừng như vẫn chưa có được một bản dịch đầy đủ để bạn đọc có thể thưởng thức trọn vẹn tác phẩm, cũng như cảm nhận sự kỳ công của tác giả khi làm nên công trình vĩ đại này. Bởi thế, dẫu biết đang làm một việc quá sức, chúng tôi vẫn xin được giới thiệu một bản dịch Sử ký mới với thứ tự trình bày theo đúng nguyên tác, gồm cả thảy năm phần, lần lượt từ Bản kỷ, Biểu, Thư, Thế gia cho tới Liệt truyện. Đồng thời, để giúp bạn đọc hiểu hơn về tác phẩm, chúng tôi cũng cố gắng dịch lại các chú thích mà tự xét thấy là phù hợp trong Tam gia chú, tức Tập giải của Bùi Nhân thời Lưu Tống, Sách ẩn của Tư Mã Trinh thời Đường, Chính nghĩa của Trương Thủ Tiết thời Đường. Tất cả những phần này đều được đưa vào cước chú, của nhà nào thì ghi rõ nhà đó, đa phần là dẫn nguyên văn, một số quá dài hay trúc trắc thì lược bớt hoặc diễn giải lại.

Sơ lược về Bản kỷ

Bản kỷ là phần đầu tiên của Sử ký,  gồm cả thảy mười hai thiên, chép việc từ thời Ngũ Đế cho tới thời Hán Vũ Đế. Về ý nghĩa của từ “bản kỷ”, đại để có thể hiểu bản tức là căn bản, kỷ tức là kỷ cương, cái kỷ cương căn bản nằm ở người nắm chính lệnh, cho nên Bản kỷ là sự ghi chép về những người nắm giữ chính lệnh trong thiên hạ, thường là các bậc Đế, Vương.

Trong Bản kỷ, tác giả chủ yếu ghi chép theo lối biên niên, liệt kể về từng triều đại hoặc từng vị vua theo trình tự thời gian, trải dài từ thời viễn cổ cho tới thời điểm mà tác giả sinh sống. Nhìn từ tổng thể, có thể nói Bản kỷ chính là bộ khung của Sử ký, cung cấp cho độc giả cái nhìn bao quát về hơn hai nghìn năm lịch sử của dân tộc Hoa Hạ. Đây có lẽ là một trong những nguyên nhân chính yếu khiến tác giả đặt phần này ở đầu tiên.

Danh sách mười hai thiên Bản kỷ như sau:

  1. Ngũ Đế bản kỷ

  2. Hạ bản kỷ

  3. Ân bản kỷ

  4. Chu bản kỷ

  5. Tần bản kỷ

  6. Tần Thủy Hoàng bản kỷ

  7. Hạng Vũ bản kỷ

  8. Cao Tổ bản kỷ

  9. Lã Hậu bản kỷ

  10. Hiếu Văn bản kỷ

  11. Hiếu Cảnh bản kỷ

  12. Hiếu Vũ bản kỷ

Trong đó, Ngũ Đế bản kỷ chép về năm vị Đế là Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Khốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn. Thiên này nội dung tương đối giản lược, mang yếu tố truyền thuyết nhiều hơn chính sử, như lời tác giả nói thì chủ yếu là dựa vào Ngũ Đế đức, Đế hệ tính và Thượng Thư mà soạn ra. 

Hạ bản kỷ chép về nhà Hạ, nội dung chủ yếu dựa theo Thượng Thư và Tả truyện. Phần lớn dung lượng thiên này là nói về công cuộc trị thủy và phân định đất đai của Đại Vũ, còn giai đoạn từ khi Vũ tức vị cho đến các đời vua sau chỉ chiếm một phần khá khiêm tốn, phần lớn chỉ chép tên mà thôi.

Ân bản kỷ chép về nhà Ân, nội dung chủ yếu dựa theo Thượng Thư và Kinh Thi, khởi đầu từ tổ của nhà Ân là Tiết, kết thúc khi Ân Trụ để mất thiên hạ về tay Chu Vũ Vương. Thiên này tuy vẫn giản lược nhưng so với Hạ bản kỷ thì đã có nhiều chi tiết hơn, khiến người đọc hình dung được một tiến trình hưng suy của triều đại này.

Chu bản kỷ chép về nhà Chu. Tới giai đoạn này thì sử liệu mà tác giả có thể tham khảo đã dồi dào hơn nhiều, tiêu biểu như Thượng Thư, Kinh Thi, Xuân Thu, Tả truyện, Quốc ngữ, Chiến quốc sách, Tần kỷ... cho nên có rất nhiều sự kiện được chép khá chi tiết, đặc biệt là ở thời Xuân Thu, khiến người ta thấy rõ quá trình nhà Chu tích đức nhiều đời, để rồi lấy được thiên hạ, sau lại vì thất đức mà để mất quyền bính về tay chư hầu, đến cuối cùng thì hoàn toàn diệt vong.

Tần bản kỷ chép về nước Tần từ khi hưng khởi cho tới khi Tần Thủy Hoàng nối ngôi, có kể thêm một chút về nội dung của thiên sau, cho tới khi nhà Tần diệt vong. Xét về mặt thời gian, Chu bản kỷ với Tần bản kỷ hầu như trùng nhau, có điều, nội dung của Chu bản kỷ tập trung nhiều vào thời Tây Chu và Xuân Thu, Tần bản kỷ thì tập trung nhiều vào thời Xuân Thu và Chiến Quốc. Ngoài ra, sở dĩ nước Tần được chép riêng thành một thiên bản kỷ, đại để là vì về cuối thời Chiến Quốc, các chư hầu hầu hết đều đã nghe lệnh nước Tần rồi. Dĩ nhiên, cũng có thể là vì nếu ghép chung với giai đoạn sau thành một thiên thì sẽ quá dài, cho nên tác giả mới tách ra như vậy.

Tần Thủy Hoàng bản kỷ chép về nhà Tần từ khi Tần Thủy Hoàng nối ngôi cho tới khi diệt vong, trải ba đời là Tần Thủy Hoàng, Tần Nhị Thế và Tần Vương Tử Anh. Đây là thiên dài nhất của phần Bản kỷ, ghi chép lại chi tiết quá trình thống nhất thiên hạ của Tần Thủy Hoàng, sau đấy là công cuộc xóa bỏ chế độ phong kiến để thay bằng lối cai trị tập quyền, rốt cuộc vì hà khắc tàn bạo mà chỉ truyền thêm được hai đời đã diệt vong. Ngoài ra, ở cuối thiên này còn liệt kê lại một lượt danh sách các vua nước Tần, ghi kèm số năm tại vị và nơi an táng, nội dung hơi khác với thiên Tần bản kỷ. Theo Sách ẩn chú giải thì phần này là dựa theo sách Tần kỷ, vì có những chỗ dị biệt chưa thể dám chắc đúng sai nên tác giả đặt ra phía sau. Kế sau nữa còn có một đoạn là lời bình của Ban Cố về sự hưng khởi và diệt vong của nhà Tần, đoạn này dĩ nhiên là do người đời sau ghép thêm vào chứ không có trong nguyên tác.

Hạng Vũ bản kỷ chép về Tây Sở Bá vương Hạng Vũ từ thời niên thiếu cho đến khi diệt Tần, phân phong chư hầu rồi cuối cùng thua trận, tự sát ở Ô Giang. Kể từ đây thì mỗi thiên bản kỷ chỉ chép về một nhân vật chính mà thôi, hành trạng đa phần được mô tả khá chi tiết. Có điều, việc đặt thiên này ở phần Bản kỷ gây khá nhiều tranh cãi, vì tuy Hạng Vũ đóng góp công lao lớn nhất trong việc diệt Tần rồi sau đó chủ trì phân phong chư hầu, nhưng đó chỉ là sự kiện mang tính nhất thời và Hạng Vũ trên thực tế cũng chưa bao giờ cai trị thiên hạ. 

Cao Tổ bản kỷ chép về Hán Cao Tổ Lưu Bang, vị Hoàng đế khai quốc của nhà Hán. Do Lưu Bang với Hạng Vũ gần như cùng thời, nhiều sự kiện cả hai còn cùng nhau tham gia, do vậy hai thiên bản kỷ có sự trùng lặp nhất định về nội dung. Tuy nhiên, nếu để ý kĩ sẽ thấy cùng một việc mà lối viết ở hai thiên lại có chút khác biệt nhỏ, thường là bản kỷ của ai sẽ viết tốt về người đó hơn.

Lã Hậu bản kỷ chép về Lã Trĩ, Hoàng hậu của Hán Cao Tổ. Đây cũng là một thiên gây nhiều tranh cãi, không phải vì Lã Hậu có xứng đáng đặt vào bản kỷ hay không, mà ở chỗ Hán Huệ Đế không được chép bản kỷ riêng mà bị chép gộp vào thiên này. Dĩ nhiên, tác giả cũng không phải là không có lý khi cho rằng trong thời kỳ ấy Hiếu Huệ không có quyền hành gì cả, quyền lực thực sự nằm ở tay Lã Hậu.

Hiếu Văn bản kỷ chép về Hán Văn Đế Lưu Hằng, vị Hoàng đế được lập nên sau khi các đại thần tru diệt họ Lã. Thiên này khá đầy đặn, chủ yếu miêu tả về các hành vi nhân đức của Văn Đế trong thời kỳ trị vì, khắc họa rõ nét hình ảnh của một vị nhân chủ.

Hiếu Cảnh bản kỷ chép về Hán Cảnh Đế Lưu Khải, con của Hán Văn Đế. Trong phần Bản kỷ thì đây là thiên ngắn nhất, nội dung khá sơ sài, hầu như chỉ chép năm và chép việc ngắn gọn, khác hẳn với các thiên trước đó. Nhiều ý kiến cho rằng đây không phải nguyên tác, nhưng cũng chưa thể khẳng định.

Hiếu Vũ bản kỷ chép về Hán Vũ Đế Lưu Triệt, con của Hán Cảnh Đế. Thiên này có thể khẳng định là không phải nguyên tác, nội dung cũng không nhất quán, đa phần ý kiến cho rằng nó được Chử Thiếu Tôn bổ khuyết dựa trên các nội dung liên quan tới Hán Vũ Đế trong Phong thiện thư. Còn về nguyên tác, như trong phần Thái sử công tự tự đã nói, đáng lẽ phải gọi là Kim Thượng bản kỷ, có ý kiến cho rằng vì trong đấy có nhiều chi tiết nói xấu Hán Vũ Đế, cho nên Vũ Đế xem xong đã ra lệnh hủy đi rồi, ấy là một điều đáng tiếc lớn.

 

zalo