Kính thưa quý độc giả, thể loại dịch Kinh Thánh song ngữ từng chữ (Interlinear Bible) vốn đã có từ lâu trên thế giới và đã góp phần không nhỏ cho việc tìm hiểu Kinh Thánh của nhiều độc giả dưới dạng ngôn ngữ gốc. Là một người yêu mến đặc biệt đối với Kinh Thánh, người dịch muốn góp chút sức mọn của mình cho Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam khi biên dịch quyển sách này. Ban đầu do hiếu kỳ muốn tìm hiểu sâu, hiểu sát từng chữ từng lời của Chúa Giêsu nên người dịch đã chuyển ngữ từng ít một các câu rời rạc.
Sau này do muốn tìm hiểu sâu rộng hơn nên người dịch quyết định làm tới cùng và cho ra đời quyển Tân Ước Hy-Việt này. Nắm bắt được nhu cầu cần có một bản dịch sát với ngôn ngữ gốc để phục vụ cho việc học thuật, nên tiêu chí của quyển sách này sẽ cố gắng đáp ứng nhu cầu đó. Bản Hy Lạp sẽ được dịch sát tối đa, nhưng không đến mức cực đoan, vẫn nằm trong phạm vi cho phép của tiếng Việt. Chính vì thế, sự trau chuốt và bóng bẩy của câu văn sẽ không được như mong đợi.
Trong quyển sách này, người dịch sử dụng bản Hy Lạp mang số hiệu BGT NA28 NT + LXX (Rahlfs) Text (<> BGM). (Đây là bản tổng hợp giữa Nestle Aland và bản LXX (bản Bảy Mươi), do nhiều học giả chọn lọc và biên soạn.)
Song song đó, người dịch không muốn trói buộc độc giả vào một nghĩa duy nhất của một từ, nên mỗi từ Hy Lạp sẽ được cung cấp nhiều nghĩa tương đồng để độc giả có thể linh động chọn lựa. Đồng thời, sách này cũng không kèm theo phần bình giải hay chú giải, nhưng đa số sẽ có các chú thích cần thiết về mặt ngữ nghĩa, ngoài ra cũng cho thấy những điểm sai sót trong bản Hy Lạp và đối chiếu với các dị bản.
Bởi Kinh Thánh Tân Ước là một quyển sách được đan xen bởi nhiều yếu tố khác nhau về tác giả, thể loại văn chương, bối cảnh văn hóa, lịch sử, chính trị… nên bản dịch này khó có thể hoàn hảo. Vì thế, bản dịch ít nhiều cũng có sai sót ngoài ý muốn, mong quý độc giả lượng thứ và góp ý. Xin chân thành cảm tạ và tri ân.
Người dịch xin chân thành cảm ơn đức cha Giuse Đỗ Quang Khang, một tôn sư đã hết lòng dạy dỗ từ những chữ cái đầu tiên và những bài học vỡ lòng của tiếng Hy Lạp. Hơn thế nữa, chính đức cha đã truyền cảm hứng ban đầu và giúp cho người dịch có thể tự đi hết quãng đường còn lại để hoàn tất quyển sách này. Bên cạnh đó, người dịch cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cha Giuse Nguyễn Ngọc Vinh SDB đã nhiệt tâm hết mình giúp kiểm tra và hiệu đính bản dịch.
-Người dịch-
MỘT SỐ QUY ƯỚC DỊCH THUẬT
Trong phần trang lẻ (trang bên trái):
o Động từ có kèm chủ ngữ ngay liền trước là động từ được chia,
động từ chính trong câu.
o Động từ không kèm chủ ngữ ngay liền trước là phân từ
(participle) hoặc động từ lối vô định (infinitive), là động từ
phụ.
o Động từ ở Thì quá khứ không hoàn thành (imperfect) được dịch
là: “đã…, vẫn…, vẫn đang…, vẫn cứ…”.
o Động từ ở Thì bất định (aorist) tuỳ theo văn cảnh mà dịch là
“đã…” hoặc như thì hiện tại.
o Động từ ở Thì hoàn thành (perfect): “vốn…, vốn đã…”.
o Động từ ở thì tương lai (future): “sẽ…”.
o Động từ ở Quá khứ xa (pluperfect): “vốn dĩ…”.
o Động từ ở Lối giả định (subjunctive): “có thể…, mà…, sẽ…,
chớ gì…”.
o Động từ ở Lối mong ước (optative): “mong sao…, ước gì…,
phải chi…”.
o Động từ ở Lối mệnh lệnh (imperative): “hãy…, cứ…, làm ơn…,
xin hãy…”
o Dấu […] : những từ được thêm-bớt vào bản văn cho dễ hiểu.
o Dấu (…) : chú thích hoặc dịch thoáng cho dễ hiểu.
o Các tên riêng sẽ được phiên âm trực tiếp từ các mẫu tự Hy Lạp
sang mẫu tự Latin, dưới dạng Chủ cách (Nominative) số ít, trừ
một số tên riêng quen thuộc như: Giêsu, Kitô, dầu Ôliu, Hy
Lạp, Do Thái, Ai Cập…
o Tên viết tắt của các sách sẽ dựa trên các tên đã được phiên dịch
ở phần tiêu đề, thuộc các trang bên phải (trang chẵn).
o Các đại từ nhân xưng sẽ ưu tiên dịch theo ngôi-thứ hơn là
những đại từ mang tính chất tình cảm của tiếng Việt.
MỘT SỐ CẶP TỪ GẦN NGHĨA
Ngài : Đại từ ngôi thứ hai số ít (you)
Người : Đại từ ngôi thứ ba số ít (he, him)
πνεῦμα : Thần Khí, Linh khí, sinh khí, tâm thần, hơi thở, linh thể…
τὸ πνεῦμα τὸ ἅγιον : Thánh Linh
πνεῦμα ἀκάθαρτον : Tà linh, tà khí
παιδίον : hài nhi, trẻ sơ sinh, trẻ thơ (infant, child, a new born child)
παῖς : trẻ con, thiếu nhi, đứa trẻ, thằng bé
κύριος : Adonaia, Đức Chúa, Chúa, ông chủ, quý Ngài, ngài.
ὁ θεός : Thiên Chúa, vị thần
ἀποστέλλω : đặc phái, cắt cử, phái đi/đến (xem chú thích Mk 1:2)
πέμπω : sai, sai đi
λέγω : nói, bảo, phán
λαλέω : công bố, nói
φημί : nói, khẳng định, quả quyết
πρόβατον : con cừu (con cừu nói chung, hoặc đã trưởng thành, sheep)
ἀρνία : con chiên (con cừu non, lamb)
ναὸν : gian cực thánh, cung thánh, thánh điện, điện thờ
ἱερόν : đền thờ (là tổng thể kiến trúc bao trùm cả cung thánh)
ἐγείρω : trỗi dậy
ἀνάστασις : sự phục sinh
παρακύπτω : nhìn, cúi nhìn
βλέπω : thấy, trông thấy (điều đập vào mắt)
θεωρέω : quan sát (đang trong quá trình tìm hiểu)
ὁράω : thấy (và hiểu)
ῥῆμα : lời, diễn từ
λόγος : lời
ὁδός : con đường, cuộc hành trình
τρίβος : lối đi, quan lộ
ἀμφίβληστρον : chài
δίκτυον : lưới
ψαλμός : thánh vịnh
ὕμνος : thánh ca
ᾠδή : thánh thi
φιλέω : quý mến, thích
ἀγαπάω : yêu mến
χάρις : ân sủng
δωρεά : ân huệ, món quà
ἀνήρ : nam nhân, người, người chồng (phân biệt với nữ giới)
ἄνθρωπος : con người, người đàn ông (phân biệt với thần linh)
θάνατος : cái chết
νεκρός : người chết, vong nhân
πλοῖον : chiếc thuyền, thuyền nhỏ
κιβωτός : con tàu, chiếc tàu lớn
οὐσία : gia tài, gia sản; cái LÀ
βίος : của cải vật chất
ψυχh, : mạng sống, linh hồn, chính bản thân, tâm hồn, tinh thần.
καρδία : con tim, trái tim, tâm hồn.
πνεῦμα : hơi thở, tinh thần, tâm hồn.
φαίνω : tỏ ra, tỏ hiện; xuất hiện
περιλάμπω : hiện đến