Lịch sử triết học Trung Quốc - Phùng Hữu Lan (trọn bộ 2 tập)
Người ta luôn nghe những lời lẽ (thậm chí do các đại học giả phương Tây nói) đại loại như: “Thời Hôn Ám ở Âu Châu đã đẩy thế giới đến một trình độ văn hoá thấp nhất.” Nói như vậy là không biết rằng: cùng lúc với thời Hôn Ám ở Âu Châu, một nền văn hoá rực rỡ huy hoàng của nhân loại đang xảy ra dưới đời Đường tại Trung Quốc, và quyển sách đầu tiên của thế giới đã được in ra tại vương quốc này trong thế kỷ IX. Rất nhiều người chúng ta ở phương Tây đã có cái nhìn mà Trang Tử bảo là “ếch ngồi đáy giếng” (well-frog), tức là xem cả thế giới lớn bằng cái vòm trời qua miệng giếng. Khi đa số chúng ta cho rằng cái di sản văn hoá Hi Lạp và La Mã vẫn là tiêu biểu của thế giới, thì khoa học so sánh các nền văn minh càng cần thiết hơn bao giờ hết, không chỉ để hiểu được các nền văn hoá nước ngoài mà còn để hiểu chính nền văn hoá của chúng ta, ngõ hầu chúng ta có sự đánh giá khách quan.
Chính vì các nguyên do đó mà bản dịch Anh ngữ này ra đời, với niềm hy vọng rằng nó sẽ giúp phương Tây thấy được một học giả Trung Quốc vốn được đào tạo theo kiểu phương Tây đã nhận định thế nào về nền triết học của chính đất nước của ông. Đây là bản dịch của Trung Quốc Triết Học Sử, của Tiến sĩ Phùng Hữu Lan, tốt nghiệp Đại học Columbia (Mỹ) và hiện (1937) giảng dạy triết học tại Đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh. Quyển I bao quát thời đại Tử Học, một thời đại có thể nói là rực rỡ nhất trong triết học Trung Quốc, trải dài từ thời xa xưa đến khoảng năm 100 TCN, khi mà Nho giáo chiếm địa vị chính thống. Trong các tác phẩm viết về thời kỳ này, bộ sách của Phùng Hữu Lan hẳn là hoàn bị nhất, và trong nhiều phương diện, người ta có thể hy vọng đây là một trong những bộ sách tốt nhất. Quyển II nối tiếp lịch sử triết học Trung Quốc, từ cuối thời đại Tử Học cho đến hiện nay.
Chúng ta cần chú ý rằng tác giả đã trích dẫn rất nhiều đoạn cổ văn từ các nguồn thư tịch gốc. Việc này khiến tác phẩm của ông không những là một sách tham khảo quý báu về các văn bản gốc của triết học Trung Quốc, mà còn tạo sự thuận lợi bởi vì nó để cho các văn bản cổ xưa tự lên tiếng. Đó là một điều rất quan trọng trong một lĩnh vực như triết học Trung Quốc, khi một văn bản thường có nhiều lời bình chú. Khi chuyển các đoạn văn trích này sang Anh ngữ, tôi cố bám vào nguyên tác, đồng thời cũng tham bác các bản dịch có sẵn bằng các ngôn ngữ phương Tây. Để thuận tiện, tôi đưa vào các ghi chú tham khảo, và tôi hiếm khi chấp nhận các lời dịch đó mà không có sự điều chỉnh của chính mình, ngõ hầu bản dịch của tôi được chính xác hơn.
Các nhà nghiên cứu lịch sử triết học Tây phương thường phân chia lịch sử triết học Tây phương làm ba thời kỳ: Thượng cổ, trung cổ, và cận đại. Điều ấy chẳng phải là một sự phân biệt tuỳ ý, bởi vì trong lịch sử triết học Tây phương mỗi thời kỳ quả thực đều có tinh thần đặc biệt và diện mục đặc thù của nó. Tương tự, lịch sử triết học Trung Quốc nếu chỉ chú ý về phương diện thời kỳ, thì cũng có thể phân chia làm ba thời kỳ: Thượng cổ, trung cổ, và cận đại. Mỗi thời kỳ đều có một nền triết học riêng, nên cũng có thể lấy “thượng cổ, trung cổ, và cận đại” để đặt tên cho chúng. Những danh xưng này cũng được dùng trong quyển sách này. Nhưng từ một phương diện khác mà nói, Trung Quốc quả thực chỉ có triết học thượng cổ và triết học trung cổ, chứ không có triết học cận đại.
Nói rằng Trung Quốc không có triết học cận đại, thì nó không có nghĩa rằng trong thời cận đại Trung Quốc không có triết học. Tuy nhiên, nó nêu ra một sự khác biệt quan trọng giữa Trung Quốc và Tây phương. Trong lịch sử triết học Tây phương, cái gọi là triết học trung cổ và triết học cận đại ngoài sự bất đồng về thời đại phát sinh còn có sự khác biệt rất rõ ràng về tinh thần và diện mục của chúng. Trong lịch sử triết học Tây phương, các hệ thống triết học được thành lập do các triết gia như Plato, Aristotle, v.v... vốn là cốt lõi của nền triết học thượng cổ của họ. Triết học trung cổ phần lớn đã chuyển mình trong các hệ thống này. Trong nền triết học trung cổ ấy có những thành phần mới thuộc về nhân sinh quan và vũ trụ quan của Thiên Chúa giáo. Các triết gia thời ấy cũng không phải là không thường có kiến giải mới, nhưng những thành phần mới và những kiến giải mới này cũng dựa vào các hệ thống triết học cổ đại, dùng những thuật ngữ của triết học cổ đại để diễn đạt. Bình cũ không thể chứa rượu mới. Trong triết học trung cổ của Tây phương không phải hoàn toàn không có rượu mới, nhưng vì lượng rượu mới này không nhiều hoặc vì nó không quá mới, cho nên nó có thể chứa được trong cái bình cũ của triết học cổ đại. Đến thời hiện đại, tư tưởng con người hoàn toàn biến đổi, các tân triết gia đều trực tiếp quan sát sự thực. Triết học của họ không dựa theo xưa và các thuật ngữ họ dùng phần lớn là tân tạo. Nói cách khác, rượu mới vừa nhiều vừa mới nên cái bình cũ không thể chứa nổi. Cái bình cũ bị phá vỡ và cái bình mới đã thay thế. Đó là lý do tại sao tôi nói rằng trong lịch sử triết học Tây phương cái gọi là triết học trung cổ và triết học cận đại ngoài sự bất đồng về thời đại phát sinh còn có sự khác biệt rất rõ ràng về tinh thần và diện mục của chúng.
Lời tựa của dịch giả Derk Bodde
Mục lục
Quyển 1:
Lời tựa của dịch giả Derk Bodde
Lời tựa của bản dịch Việt ngữ
Biển rộng trời cao ta vút bay
Chương 1. Mở đầu
Chương dẫn nhập (Chương 1 rút gọn của dịch giả derk bodde)
Chương 2. Phiếm luận thời đại Tử học
Chương 3. Tư tưởng và tôn giáo trước thời Khổng Tử
Chương 4. Khổng Tử và khởi nguyên của Nho gia
Chương 5. Mặc Tử và Mặc gia thời kỳ đầu
Chương 6. Mạnh Tử và Mạnh học
Chương 7. Cái học Bách gia thời Chiến Quốc
Chương 8. Lão Tử và Lão học trong Đạo gia
Chương 9. Huệ Thi, Công Tôn Long, và các biện giả khác
Chương 10. Trang Tử và Trang học trong Đạo gia
Chương 11. Mặc kinh và các Mặc gia về sau
Chương 12. Tuân Tử và Tuân học trong Nho gia
Chương 13. Hàn Phi Tử và các pháp gia khác
Chương 14. Nho gia đời Tần và đời Hán
Chương 15. Vũ trụ luận trong Dịch truyện và sách Hoài Nam Hồng Liệt
Chương 16. Lục nghệ của Nho gia và sự độc tôn của Nho gia
Niên biểu thời đại Tử học
Quyển 2:
Chương 1: Phiếm luận về thời đại Kinh học
Chương 2: Đổng Trọng Thư và Kinh học Kim Văn
Chương 3: Cái học sấm vĩ và tượng số giữa hai đời hán
Chương 4: Kinh học cổ văn và Dương Hùng, Vương Sung
Phỏng vấn dịch giả
Nhân dịp cuốn sách mới nhất mà ông dịch sang tiếng Việt vừa ra mắt - cuốn Lịch sử triết học Trung Quốc của Phùng Hữu Lan, một công trình đồ sộ và quan trọng của văn hóa Trung Quốc, được xem như một giáo trình căn bản về triết học Trung Quốc tại các Đại học Tây phương, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, chúng tôi có cuộc trò chuyện với ông:
* Việc dịch các tác phẩm kinh điển của triết học đang được chú trọng, ông đánh giá thế nào về ý nghĩa của công việc này?
- Dịch giả Lê Anh Minh: Đó là một việc rất đáng mừng. Khi độc giả bắt đầu chịu đọc sách triết tức là đời sống tinh thần của xã hội được nâng lên và sự hiểu biết cũng mở rộng. Thí dụ, đọc sách triết Trung Quốc chúng ta sẽ hiểu nhân sinh quan và vũ trụ quan của người Trung Quốc, và hiểu thêm về văn hóa của họ.
* Được biết, ông biết các ngoại ngữ Hán, Anh, Đức. Vậy theo ông, dịch tiếng Hán sang tiếng Việt có gì khác biệt với dịch các ngôn ngữ của phương Tây không?
- Tôi thấy có sự khác biệt, ít nhất là đối với tôi. Chẳng hạn, ngữ pháp tiếng Đức rất phức tạp, do vậy, muốn dịch một câu sang tiếng Việt cho suôn sẻ thì phải xử lý lại cấu trúc câu. Do đó, nói chung bản dịch từ các ngôn ngữ phương Tây sang tiếng Việt thường thường không được tự nhiên lắm. Trong khi đó, tiếng Hán khá gần gũi với tiếng Việt nên dịch dễ dàng hơn. Tuy nhiên, vấn đề này còn tùy từng dịch giả nữa.
* Phùng Hữu Lan là một tên tuổi khá quen thuộc ở Việt Nam, vậy ông có thể cho biết trước 1975 có những ai đã dịch và nghiên cứu Phùng Hữu Lan?
- Ở miền Bắc thì tôi không rõ; còn ở miền Nam trước 1975 chưa có công trình nào nghiên cứu Phùng Hữu Lan được xuất bản. Học giả Nguyễn Đăng Thục và học giả Nguyễn Hiến Lê có tham khảo bộ Trung Quốc Triết Học Sử (2 quyển) để viết triết học Trung Quốc. Về việc phiên dịch, dịch giả Nguyễn Hữu Ái lược dịch quyển 1 (NXB Khai Trí, không rõ năm xuất bản). Dịch giả Nguyễn Văn Dương dịch quyển tóm tắt của bộ sử này, tức là quyển A Short History of Chinese Philosophy, nhưng vì ông không có bản tiếng Anh nên dịch lại bản dịch tiếng Pháp của Guillaume Dunstheimer. Bản dịch của ông nhan đề Đại Cương Triết Học Sử Trung Quốc (Viện Đại Học Vạn Hạnh ấn hành, 1968); gần đây được in lại.
* Như vậy là đã có người dịch tác phẩm của Phùng Hữu Lan sang tiếng Việt, thế thì điểm mới của bản dịch này là gì?
- Phùng Hữu Lan viết ba bộ sử (gọi là Tam Sử). Đầu tiên là Trung Quốc Triết Học Sử (2 quyển); sau đó ông tự viết bằng tiếng Anh rút gọn bộ đó thành A Short History of Chinese Philosophy; về cuối đời ông viết lại bộ đầu tiên thành Trung Quốc Triết Học Sử Tân Biên (7 quyển). Như nói trên, trước đây có hai người dịch Phùng Hữu Lan, ông Nguyễn Hữu Ái lược dịch phần đầu; ông Nguyễn Văn Dương thì dịch bản rút gọn. Do đó, bản dịch của tôi là mới mẻ hoàn toàn: lần đầu tiên tại Việt Nam có bản dịch trọn bộ Trung Quốc Triết Học Sử (2 quyển).
Tôi dùng cả nguyên tác Hán ngữ và bản dịch tiếng Anh của Derk Bodde. Trong bản dịch Anh ngữ, Derk Bodde và Phùng Hữu Lan có sửa đổi nhiều chỗ, khác với bản Hán ngữ. Tôi linh động dịch cả hai. Thí dụ, tôi dịch cả chương đầy đủ của bản Hán ngữ và chương rút gọn của bản Anh ngữ; chương nào được Derk Bodde và Phùng Hữu Lan sửa đổi thì tôi dịch theo phần đã sửa. Tuy vậy, tiếc phần bị bỏ đi, tôi vẫn dịch nó và ghi là Phụ Chương. Ngoài ra tôi còn bổ sung thêm, như: so sánh giữa Chu Dịch và Thái Huyền Kinh, dịch thêm bài Luận Phật Cốt Biểu của Hàn Dũ, tiểu sử và hình ảnh của các triết gia.
Trong bản dịch này tôi bảo lưu nguyên văn chữ Hán của các đoạn trích dẫn cổ văn trong nguyên tác, đồng thời phiên âm Hán - Việt và chú giải thêm. Bản dịch này có chú thích của Phùng Hữu Lan, chú thích rất kỹ của Derk Bodde, và phần phụ chú riêng của tôi (để độc giả khỏi mất công tra cứu). Tôi còn dịch thêm bài viết của Trương Quý Đồng đánh giá bộ Trung Quốc Triết Học Sử của Phùng Hữu Lan và nêu ra phương pháp đọc bộ sách này. Đây là bài viết quan trọng mà độc giả cần đọc trước tiên.
* Cách đánh giá về các nhà triết học Trung Quốc của Phùng Hữu Lan có điểm gì khác biệt so với các học giả khác?
- Về điểm này bài viết của Trương Quý Đồng phân tích rất rõ. Phùng Hữu Lan vận dụng duy vật sử quan và vận dụng rất linh hoạt chứ không máy móc. Thí dụ ông viết: "Tư tưởng con người đều bị hoàn cảnh tinh thần và vật chất của họ hạn chế". Do đó, trước khi trình bày sự biến hóa tư tưởng triết học thì ông nói về căn nguyên xã hội của nó. Trước khi trình bày tư tưởng của một triết gia thì tác giả thường nói đến hoàn cảnh của người đó. Thí dụ khi nói đến Khổng Tử thì tác giả trình bày trước tiên tình hình văn hóa của nước Lỗ; khi giảng về Mặc Tử thì trình bày trước tiên quan hệ của Mặc Tử với nước Tống và nước Lỗ; khi giảng về Lão Tử và Trang Tử thì trước tiên thuyết minh tình hình văn hóa của nước Sở và tinh thần của người Sở,... Đó là điểm khác biệt của Phùng Hữu Lan so với các học giả khác.
* Ở Trung Quốc người ta đã thành lập hội "Phùng học" để nghiên cứu triết học của Phùng Hữu Lan, ông có nghĩ là mình sẽ tiếp tục dịch các tác phẩm của Phùng tiên sinh sang tiếng Việt không?
- Sau khi dịch xong bộ Lịch sử triết học Trung Quốc của Phùng Hữu Lan, tôi đã dịch tiếp quyển Tinh thần của triết học Trung Quốc của ông. Bản thảo hoàn tất cuối năm ngoái, đã đưa cho nhà xuất bản, hy vọng xuất bản trong năm 2007 này.