Việt Nam có hơn bốn nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Với bề dày lịch sử và nhiều dân tộc cùng chung sống trong thời gian dài, cũng như những thăng trầm của lịch sử mà dân tộc Việt Nam có nhiều nét văn hóa độc đáo. Ngoài ra, nước ta còn có những cảnh quan thiên nhiên tuyệt vời của xứ sở nhiệt đới gió mùa nằm cạnh biển Đông. Chính những đặc điểm trên đã tạo nên nhiều danh lam thắng cảnh, cũng như những nét văn hóa, tín ngưỡng mà thế giới phải công nhận.
Cơ quan công nhận những nét độc đáo đó chính là UNESCO - Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (United Nations Educational Scientific and Cultural Organization). Đây là một trong những tổ chức chuyên môn lớn của Liên hợp quốc, hoạt động với mục đích "thắt chặt sự hợp tác giữa các quốc gia về giáo dục, khoa học và văn hóa để đảm bảo sự tôn trọng công lý, luật pháp, nhân quyền và tự do cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo". Các dự án nổi bật của UNESCO là duy trì danh sách các di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển thế giới, di sản tư liệu thế giới, công viên địa chất toàn cầu, di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của nhân loại...
Di sản thế giới là một địa điểm hay khu vực được lựa chọn bởi UNESCO, có giá trị về văn hóa, lịch sử, khoa học, được pháp luật
bảo vệ bởi các điều ước quốc tế. Những địa điểm này được đánh giá là có tầm quan trọng đối với lợi ích của cả nhân loại. Một địa điểm có thể là di chỉ, di tích hay danh thắng của một quốc gia như rừng, dãy núi, hồ, sa mạc, tòa nhà, quần thể kiến trúc hay thành phố. do các nước có tham gia Công ước Di sản thế giới đề cử cho Ủy ban Di sản thế giới, được công nhận và quản lý bởi UNESCO.
Trong hệ thống các danh hiệu của UNESCO, Di sản thế giới là danh hiệu danh giá nhất và lâu đời nhất.
Hiện nay, số di sản tại Việt Nam được UNESCO công nhận ngày càng nhiều hơn, ngày càng đa dạng và độc đáo hơn. Đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã có 28 di sản - cả vật thể và phi vật thể đã được UNESCO công nhận. Trong tập sách này - NHỮNG DI SẢN VĂN HÓA VÀ THIÊN NHIÊN THẾ GIỚI TẠI VIỆT NAM, chúng tôi giới thiệu 8 di sản thế giới, được UNESCO công nhận từ năm 1993 đến 2014. Đây chính là những tài sản quý giá của dân tộc cần được khai thác, lưu giữ và phát huy.
Di sản văn hóa phi vật thể (tiếng Anh: Intangible cultural heritage) là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, trị thức về y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác. Di sản văn hóa phi vật thể không chỉ là những truyền thống được truyền lại từ quá khứ, mà còn bao gồm các tập quán đương đại của nhiều nhóm văn hóa khác nhau ở các vùng nông thôn và thành thị.
Di sản văn hóa phi vật thể là một nhân tố quan trọng để bảo tồn sự đa dạng của văn hóa trong quá trình toàn cầu hóa tăng nhanh. Hiểu được di sản văn hóa phi vật thể của nhiều cộng đồng khác nhau sẽ giúp tăng quá trình đối thoại giữa các nền văn hóa và khẳng định sự tôn trọng các cách sống khác nhau. Tầm quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể không phải chỉ nằm ở các hình thức thể hiện văn hóa, mà còn ở kho tàng kiến thức và kỹ năng được truyền từ đời này sang đời khác. Giá trị kinh tế xã hội của kho tàng kiến thức này liên quan đến các nhóm dân tộc thiểu số lẫn các nhóm đa số trong một quốc gia, dù là nước phát triển hay đang phát triển.
Theo quy định của pháp luật, Di sản văn hóa Việt Nam là tàisản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Điều 1 Luật Di sản văn hóa (sửa đổi, bổ sung năm 2009) xác định rõ: "Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam".
Nhiều di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ bị mai một hay biến mất nếu không có sự bảo tồn và phát huy. Bảo vệ có nghĩa là đảm bảo di sản văn hóa phi vật thể là một phần cuộc sống của thế hệ hiện tại và sẽ được truyền dạy sang các thế hệ tương lai. Các biện pháp bảo vệ hướng tới mục tiêu đảm bảo sự sống, sự liên tục làm mới và truyền dạy. Các hoạt động nhằm bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể bao gồm: xác định và tư liệu hóa, nghiên cứu, bảo tồn, thúc đẩy, tăng cường và truyền dạy di sản, đặc biệt là thông qua giáo dục chính quy và không chính quy, cũng như làm sống lại một số yếu tố đã bị mai một. Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể cũng là một nguồn phát triển kinh tế quan trọng, mặc dù không nhất thiết phải thông qua các hoạt động tạo nguồn thu nhập như du lịch, các hoạt động có khả năng làm ảnh hưởng đến sự tồn tại của di sản.
Tính đến nay, UNESCO đã ghi danh 14 di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Chúng tôi trân trọng giới thiệu những di sản này qua cuốn NHỮNG DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐẠI DIỆN CỦA NHÂN LOẠI TẠI VIỆT NAM.
Khi biên soạn, dù chúng tôi đã cố gắng bao quát những thông tin có được, song do khả năng có hạn, nên cuốn sách hẳn còn nhiều thiếu sót, vậy rất mong được sự thông cảm và thứ lỗi của bạn đọc.