“Dẫu sao thì Bergson cũng không thuộc về những triết gia gắn triết học với sự minh triết và cân bằng của riêng con người. Khai mở ta với cái phi nhân và với cái siêu nhân (những thời tục cao hơn hay thấp hơn thời tục của ta…), vượt qua thân phận con người, đó mới là ý nghĩa của triết học, dẫu cho thân phận kết án ta phải sống giữa những hỗn hợp bị phân tích sai, và dù bản thân ta là một hỗn hợp bị phân tích sai.” (Chương I)
Gilles Deleuze (1925-1995) là một trong những tác giả hậu hiện đại quan trọng nhất trong thế kỉ XX. Ông phát triển một triết học về sự trở thành, giải cấu trúc và phê phán quyền lực. Các nghiên cứu của ông có ảnh hưởng sâu rộng đến tư duy hậu hiện đại nói chung, bao gồm cả văn học, chính trị, điện ảnh, tâm lý học.
“Học Thuyết Bergson” khảo cứu hệ tư tưởng của triết gia quan trọng người Pháp vào đầu thế kỉ XX, Henri Bergson. Bergson đã đưa ra một cách hiểu hoàn toàn đột phá về vấn đề thời gian, khái niệm mà ông gọi là thời tục (la durée). Thời tục phân biệt với thời gian khách quan xét như là trải nghiệm trực tiếp của ý thức, mà không phải là một loại thời gian đã bị nhuộm màu trí tuệ, tức là một thời gian đã bị không gian hóa. Qua đó Bergson thiết lập thời tục như cái cơ chất mang tính bản thể của thực tại.
Tư tưởng của ông có ảnh hưởng rất lớn đến các lý thuyết về sự sống, triết học tinh thần và mở rộng ra các ngành tâm lý học, sinh học, khoa học tự nhiên và nghệ thuật. Song hành với các bước tiến của khoa học hiện đại trong việc khảo sát không-thời gian, Bergson đã mong muốn xây dựng một siêu hình học bổ khuyết cho nền khoa học này. Cuối cùng, khảo luận này của Deleuze, vốn được cho là một trong những diễn giải quan trọng nhất về Bergson, đã góp phần khơi lại các quan tâm nghiên cứu về Bergson vào cuối thế kỉ XX, đồng thời cũng cung cấp một cách hiểu về chính tư tưởng của Deleuze.
Quyển sách trình bày theo trình tự: phương pháp trực giác, nối tiếp ba khái niệm chủ đạo (thời tục, kí ức và đà sống) bao quát cả hệ thống trong hơn một trăm trang. Qua đó Deleuze nhấn mạnh tính thống nhất và chỉ ra quan hệ giữa các chặng đường này. Trước một văn bản quá ẩn ước và cô đọng như vậy, người dịch có viết thêm các phần chú giải thêm cho từng chương.
Triết học của Spinoza là một trong những nỗ lực triệt để nhất nhằm xây dựng một bản thể học thuần túy bằng một chất vô hạn duy nhất. Cuốn sách này, trình bày những ý tưởng chính của Spinoza dưới dạng từ điển, có chủ đề là sự đối lập giữa đạo đức và luân lí, và mối liên hệ giữa các mệnh đề đạo đức và hữu thể học. Đạo đức của ông là tập tính học, thay vì là khoa học luân lí.
“Không có triết gia nào đức hạnh hơn, cũng không có ai bị lăng mạ và căm ghét nhiều như ông. Để hiểu được lí do này thì chỉ nhắc lại luận đề lí thuyết quan trọng của thuyết Spinoza là không đủ: một bản thể duy nhất có vô hạn thể tính, Deus sive Natura , toàn bộ “mọi tạo vật” chỉ là những thể cách của những thể tính, hay là những biến thể của bản thể này. Nhưng vẫn thiếu sót nếu ta đơn thuần chỉ ra làm sao thuyết phiếm thần và vô thần kết hợp với nhau trong luận đề ấy, đồng thời cũng phủ định một Thượng Đế luân lí, sáng tạo và siêu việt”.
Với những phân tích chính xác và mang tính phê phán về triết học Nietzsche, Deleuze soi sáng tác phẩm của triết gia này, người vốn thường xuyên bị quy giản về chủ nghĩa hư vô, về ý chí quyền lực và về hình ảnh siêu nhân. Deleuze nhận thấy rằng “triết học hiện đại trình bày những hiện tượng hỗn độn biểu lộ sức sống mạnh mẽ và sự mãnh liệt của nó nhưng cũng chứa đựng những nguy hiểm đối với tinh thần” và nhận thấy rằng dự án triết học của Nietzsche trong việc “vượt qua” siêu hình học có hiệu lực ở chỗ nó “tố cáo” mọi huyễn hoặc từng tìm thấy trong biện chứng pháp nơi ẩn náu cuối cùng. Triết học Nietzsche có một khả năng tranh luận rất lớn.
Việc tiếp thu Nietzsche ở Pháp rất phong phú và phức tạp, đó là chưa nói đến ở Ý và các nước Anh-Mỹ. Riêng ở Pháp, người ta thường chia thành hai xu hướng lý giải lớn: lý giải Nietzsche như là triết gia của sự khác biệt (différence) và lý giải Nietzsche như là nhà siêu hình học hay tâm lý học.
Ở xu hướng trước, công đầu thuộc về Gilles Deleuze (Nietzsche như là kẻ sáng lập một nền triết học chống-Hegel của “sự khác biệt và tái diễn”), sau đó là Pierre Klossowski (lấy cảm hứng từ J. J. Rousseau, nhấn mạnh đến sự tương phản bi kịch giữa tính tự phát của cảm năng và tính thuần lý của tư duy trừu tượng), rồi đến Michel Foucault (cái nhìn của Nietzsche về lịch sử như là sân khấu của bạo lực) và Jacques Derrida (cái nhìn của Nietzsche về “trò chơi của “différance” [của sự “triển hạn”/và “khác biệt”].
Ở xu hướng sau lý giải Nietzsche như là nhà bản thể học về sự khác biệt (Pierre Boudot, Michel Guérin…), hoặc như nhà tâm lý học và nhà giáo dục về sự tự do (Christophe Baroni, Michel Henry…), hoặc như người thiết lập một bản thể học mới mẻ (Jean Granier, Alain Juranville, Éric Blondel…).
Trong các trào lưu này, Gilles Deleuze là khuôn mặt tiên phong và nổi bật. Một sự “phân kỳ” làm ba giai đoạn trong hành trình tư tưởng của Deleuze được Raymond Bellour và Francois Ewald đề nghị trong một cuộc nói chuyện với Deleuze vào năm 1988 (và ông không phản đối!) hầu như tương ứng với cái “tam vị nhất thể triết học” nói ở trên.
Thời kỳ đầu (“tư duy mới”) là những công trình nghiên cứu về Hume, Nietzsche (“Nietzsche và triết học”, 1962), Kant, Bergson, Spinoza với các kết quả được đúc kết trong hai tác phẩm chính yếu (“Différence et répétition”, 1968 và “Logique du sens”, 1969) thành một phác thảo có hệ thống về “triết học của sự khác biệt”. Thời kỳ thứ hai (“nhìn mới, nghe mới”) được đánh dấu bằng sự hợp tác với Félix Guattari, nhà phân tâm học, với các tác phẩm: L’Anti-Oedipe. Capitalisme et shizophrénie I, 1972, một nghiên cứu nhỏ về Kafka (1975) và Mille Plateaux. Capitalisme et schizophrénie II, 1980, một sự hợp tác được ông xem là rất có chất lượng triết học, vì đã cùng nhau lý giải thế nào là triết học.
Sau cùng, thời kỳ thứ ba (“cảm nhận mới”) là các tác phẩm về hội họa của Francis Bacon (1981) và về điện ảnh (1983, 1985), được ông xem là các “sách triết học” dù với đề tài khá lạ lẫm. Như một sự “tái diễn”, Deleuze viết thêm về Leibniz (1988) cũng như cùng với Guattari viết quyển “Qu’est-ce que la Philosophie?”, (1991).
Trích Nietzsche và triết học,
Gilles Deleuze và việc tiếp nhận Nietzsche ở Pháp (Bùi Văn Nam Sơn)